Gần đây tôi gặp một sinh viên, một người Công giáo trẻ gốc Phi-Mỹ, người có hiểu biết sâu sắc hơn phần lớn về truyền thống Công giáo. Em bày tỏ mối bận tâm rằng Giáo hội nên có vai trò tiên tri hơn trong việc lên tiếng trước những vấn đề xã hội đương đại. Trong lúc trò chuyện, tôi cảm nhận rằng em xem đây chủ yếu là trách nhiệm của giới chức giáo hội, chứ không phải là trách nhiệm của toàn thể tín hữu những người đã được trao sứ mạng sống Tin Mừng qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Vậy, Thánh Thể có đáp ứng được mối bận tâm này không? Và chúng ta có thể cử hành Thánh Thể như thế nào để thực sự nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống đức tin?
Thánh Thể không chỉ là di sản văn hóa, cũng không chỉ là một nghi thức đẹp đẽ hay một biểu tượng siêu việt. Phụng vụ không chỉ là vấn đề thẩm mỹ. Phụng vụ Tridentin là một cách thể hiện văn hóa, chủ yếu dành cho các tín hữu truyền thống. Nhưng còn có những cách khác, nhạy bén hơn với văn hóa địa phương. Tuy nhiên, điều tôi thấy thiếu trong nhiều cuộc thảo luận về phụng vụ là sự quan tâm đến thần học nền tảng của Thánh Thể đặc biệt là sứ mạng biến đổi mà nó hàm chứa. Sự hấp dẫn dường như mang tính cá nhân nhiều hơn là cộng đoàn. Thiếu vắng ý thức về “chúng ta” trong phụng vụ. Những cải tổ phụng vụ của Công đồng Vatican II là nỗ lực nhằm đáp lại điều đó.
Một trong những chỉ trích đối với phụng vụ Tridentin là nó khiến giáo dân trở nên thụ động. Phụng vụ được cử hành bằng tiếng Latinh không còn là ngôn ngữ thông dụng. Giáo dân gần như im lặng, họ chỉ “nghe” hoặc “hiệp dâng” Thánh lễ. Tại Đức, linh mục chỉ “đọc” phụng vụ. Việc cử hành các biểu tượng phụng vụ gần như chỉ do linh mục đảm trách. Ngài chào cộng đoàn thinh lặng, đọc Kinh Thánh, đọc lời nguyện Thánh Thể bằng giọng thấp không nghe rõ, rồi phân phát Mình Thánh. Vai trò chính của ngài là “làm phép” Thánh Thể.
Giáo dân không chúc bình an cho nhau hay đáp lời cầu nguyện; việc đó do hai cậu bé giúp lễ thực hiện (không có bé gái). Khi rước lễ, giáo dân quỳ bên rào cung thánh, đón nhận Mình Thánh đặt trên lưỡi từ tay linh mục. Rào cung thánh tạo ranh giới giữa “nơi thánh” và nơi giáo dân. Giáo dân không chạm vào bình thánh. Nhiều người lần chuỗi Mân Côi trong Thánh lễ, một số khác theo dõi qua sách lễ có cả tiếng Latinh và tiếng Anh.
Công đồng Vatican II
Công đồng Vatican II đã thay đổi tất cả. Một trong những mối quan tâm đầu tiên là “cải tổ và phát triển phụng vụ”, được đề cập trong hiến chế Sacrosanctum Concilium. Các Giám mục dạy rằng, trước hết, “giáo dân phải được hướng dẫn để tham dự phụng vụ cách ý thức, tích cực và trọn vẹn, như bản chất của phụng vụ đòi hỏi” (số 14). Đây là nguyên tắc nền tảng của việc canh tân phụng vụ. Họ còn thêm rằng “mọi người nên được khuyến khích tham dự qua những lời tung hô, đáp ca, thánh vịnh, đối ca, bài hát, cử chỉ, tư thế thân thể, và đúng lúc thì giữ thinh lặng sốt sắng” (số 30). Hiến chế này được thông qua với chỉ bốn phiếu chống.
Một cải cách quan trọng là phục hồi thần học về cộng đoàn phụng vụ. Linh mục Dòng Tên Joseph Jungmann, chuyên gia lịch sử phụng vụ, viết trong tác phẩm Pastoral Liturgy rằng:
“[Phụng vụ] là việc thờ phượng công khai mang tính cộng đoàn, trong đó tiếng ‘Amen’ của dân vang lên như sấm sét thiên quốc – theo lời thánh Giêrônimô. Có mối liên hệ mật thiết giữa bàn thờ và dân chúng, được thể hiện qua lời chào, đáp lời, lời khẩn cầu và đồng thuận – nhất là qua hình thức ngôn ngữ số nhiều trong các lời nguyện.”
Sau công đồng, các tài liệu nhấn mạnh rằng toàn thể cộng đoàn, chứ không chỉ linh mục, cùng cử hành Thánh Thể. Tổng quy chế Sách lễ Rôma cũng khẳng định: “Cử hành Thánh Thể là hành động của toàn thể Giáo hội.”
Linh mục Louis Cameli viết trên tạp chí America rằng tham dự Thánh Thể không chỉ là đảm nhiệm một vai trò phụng vụ. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta hiệp nhất với mầu nhiệm Đức Kitô Đấng dâng hiến chính mình lên Chúa Cha để cứu độ thế giới và được thông phần vào chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết. Thánh Thể là sứ mạng. Cuối lễ, với tư cách là chi thể của thân mình Đức Kitô, chúng ta được sai đi: “Hãy ra đi bình an, tôn vinh Chúa bằng chính đời sống anh chị em.” Khi sống các mối phúc thật, ta làm chứng cho Tin Mừng và vương quốc của Thiên Chúa.
Đức Kitô hành động qua thân thể của Ngài là Giáo hội, kêu gọi Kitô hữu bước theo con đường của tình yêu và sứ mạng cứu thế (theo Johann Baptist Metz), mặc khải Thiên Chúa như một Thiên Chúa đầy lòng xót thương (Albert Nolan), hiện diện qua việc chăm sóc nhau (Edward Schillebeeckx), giải phóng con người khỏi những hệ thống áp bức (Elisabeth Schüssler Fiorenza), và tiếp tục sứ vụ của Nước Trời: chữa lành, trừ quỷ, tha thứ, giảng dạy, biến đổi xã hội (Terrence Tilley), và đưa những kẻ bị đóng đinh xuống khỏi thập giá (Jon Sobrino).
Truyền thống và đổi mới
Để giúp người Công giáo làm quen với kho tàng Kinh Thánh rộng lớn hơn, sau Công đồng Vatican II, một sách bài đọc mới (lectionary) đã được giới thiệu với chu kỳ hai năm cho ngày thường và ba năm cho Chúa nhật. Sách bài đọc này thành công đến mức một số giáo hội Tin Lành cũng chấp nhận sử dụng.
Một số thực hành không cần thiết hoặc lặp lại đã bị loại bỏ. Ví dụ, trong Sách lễ Rôma trước Công đồng, vị chủ tế làm dấu Thánh giá hơn 20 lần trong một Thánh lễ.
Một số thực hành truyền thống khác được phục hồi những điều từng bị bỏ quên khi lòng đạo đức dần dồn về sự hiện diện của Đức Kitô nơi hình bánh rượu. Trong Giáo hội sơ khai, tín hữu đứng khi tham dự phụng vụ. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể của Sách lễ Rôma có đoạn nhắc đến những người “đang đứng xung quanh” bàn thờ (tiếng Latinh: omnium circumstantium); bản văn sớm hơn viết là circum adstantes. Một quy định từ Công đồng Nicêa từng giới hạn việc quỳ trong Thánh lễ chỉ trong mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, về sau giáo dân bắt đầu quỳ trong phần Kinh Tạ Ơn.
Khoảng năm 1050, dưới ảnh hưởng cuộc tranh luận với Berengar thành Tours về sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể, ý nghĩa của thuật ngữ “Thân Mình mầu nhiệm” (Corpus mysticum) và “Thân Mình thật” (Corpus verum) bị đảo lộn. Ban đầu, “Thân Mình mầu nhiệm” chỉ Mình và Máu Thánh trong Bí tích Thánh Thể, còn “Thân Mình thật” chỉ chính cộng đoàn Giáo hội. Nhưng về sau, do tranh luận, thuật ngữ “Thân Mình mầu nhiệm” được dùng cho Giáo hội, còn “Thân Mình thật” chỉ sự hiện diện của Đức Kitô trong Bí tích. Điều này góp phần làm nảy sinh một lòng đạo đức Thánh Thể mang tính cá nhân hơn. Việc truyền phép và sự hiện diện thật của Chúa trở thành tâm điểm, được nhấn mạnh qua một cụm từ không chính xác vẫn còn được dùng đến nay: “phép lạ biến thể” (the miracle of transubstantiation).
Khi Sách lễ mới của Đức Giáo hoàng Phaolô VI được công bố năm 1970, phụng vụ đã lấy lại một số thực hành truyền thống. Thánh lễ được cử hành bằng tiếng bản ngữ. Bàn thờ được xoay về phía cộng đoàn. Giáo dân đối thoại với linh mục chủ tế qua các lời đáp và các thánh vịnh. Một số tín hữu đọc bài đọc, những người khác dâng của lễ bánh và rượu trong cuộc rước dâng lễ. Trước khi rước lễ, cộng đoàn trao cho nhau dấu chúc bình an. Về sau còn có thêm thay đổi như: giáo dân lên rước lễ trong tư thế đứng, không còn quỳ tại rào cung thánh. Một số người được trao vai trò “thừa tác viên Thánh Thể ngoại thường.” Lần đầu tiên kể từ thế kỷ 12, giáo dân được rước Máu Thánh trong chén thánh.
Tuy vậy, nhiều học giả thừa nhận rằng việc thực hiện các cải cách của Công đồng trong những năm đầu đã diễn ra quá vội vã, thiếu sự giáo huấn kỹ lưỡng để chuẩn bị cho giáo dân. Kết quả là có cả một thập niên thử nghiệm, đôi khi thiếu định hướng, khi một số linh mục cố gắng làm cho phụng vụ “ý nghĩa hơn” hay “bao hàm hơn.” Rất may là chúng ta đã vượt qua giai đoạn phụng vụ “sáng tạo” của cuối những năm 70 và đầu 80.
Việc rước lễ bằng tay – vốn là thực hành phổ biến trong cả Giáo hội Đông phương lẫn Tây phương suốt 800 năm đầu phải mất nhiều thời gian mới được Tòa Thánh chấp thuận. Thánh Cyril thành Giêrusalem (313–386) đã dạy: “Khi lên rước lễ, đừng duỗi cổ tay hay xòe ngón tay, nhưng hãy đặt tay trái làm ngai cho tay phải (vì sắp đón nhận Đức Vua) và dùng lòng bàn tay để rước Mình Thánh Chúa; rồi đáp: ‘Amen’.”
Phụng vụ chính đáng
Hầu hết người Công giáo đều hoan nghênh những thay đổi này. Nhưng không phải tất cả. Một nhóm nhỏ những người truyền thống đã phản đối các cải cách, kêu gọi tiếp tục duy trì Thánh lễ Tridentin trước Công đồng. Một số người còn từ chối Công đồng Vatican II và rơi vào tình trạng ly giáo, theo gương Tổng Giám mục Marcel Lefebvre. Những người khác tuy vẫn hiệp thông với Giáo hội và Đấng kế vị Phêrô, nhưng luôn bày tỏ lòng yêu mến phụng vụ Latinh truyền thống với vẻ đẹp, sự trang nghiêm và chiều sâu siêu việt của nó.
Nhằm hòa giải với các tín hữu truyền thống, Đức Gioan Phaolô II đã hai lần ban phép miễn chuẩn (năm 1984 và 1988), cho phép cử hành Thánh lễ Tridentin trong phạm vi hạn chế. Trước đó, ngài đã tham khảo ý kiến các Giám mục trên thế giới chỉ 1,5% ủng hộ. Tuy nhiên, Đức Bênêđictô XVI, không hỏi ý kiến các Giám mục, đã tiến xa hơn nhiều. Năm 2007, ngài ban hành Tự sắc Summorum Pontificum, cho phép cử hành rộng rãi Thánh lễ theo nghi thức cũ, gọi đó là “hình thức ngoại thường” của nghi lễ Rôma.
Dù ý định của ngài là tốt – mong muốn hòa giải với Hội Thánh Piô X và hy vọng hai hình thức phụng vụ có thể làm phong phú lẫn nhau nhưng việc mở rộng Thánh lễ Tridentin đã làm bùng nổ “cuộc chiến phụng vụ”, nhất là khi phụng vụ này đối lập với thực hành hiện tại của Giáo hội. Ví dụ, trong Thánh lễ Tiệc Ly thứ Năm Tuần Thánh, nghi thức rửa chân vẫn chỉ dành cho nam giới. Theo Đức Phanxicô, với một số người, Thánh lễ Tridentin đã trở thành biểu tượng cho sự bác bỏ Công đồng Vatican II và giáo huấn của ngài.
Cuối cùng, Đức Phanxicô đã quyết định hành động. Sau cuộc “tham khảo chi tiết” các Giám mục do Bộ Giáo lý Đức tin thực hiện, ngày 16/07/2021, ngài ban hành Tông thư Traditionis Custodes, giới hạn việc cử hành Thánh lễ Tridentin. Trong thư gửi các Giám mục kèm theo, Đức Phanxicô bày tỏ sự tiếc nuối về những lạm dụng phụng vụ từ nhiều phía, đồng thời nói thêm: “Tôi buồn vì việc sử dụng Sách lễ Rôma 1962 đã bị khai thác như một công cụ để bác bỏ không chỉ việc cải tổ phụng vụ mà còn cả Công đồng Vatican II, với những lập luận vô căn cứ và không thể chấp nhận rằng Công đồng đã phản bội Truyền thống và Giáo hội chân thật.” Ngài kêu gọi các Giám mục đảm bảo rằng “mọi phụng vụ phải được cử hành cách trang nghiêm, trung thành với các sách phụng vụ đã được công bố sau Công đồng Vatican II.”
Không đúng với tinh thần Công đồng khi cho rằng Thánh lễ Tridentin vượt trội hơn phụng vụ hiện nay, vì điều đó làm ngơ trước thần học mà phụng vụ mới diễn tả. Dù bản dịch năm 2011 còn nhiều thiếu sót, phụng vụ hiện tại vẫn diễn tả sự tôn kính đích thực khi vị chủ tế cầu nguyện, chứ không trình diễn. Thánh lễ cần được cử hành cẩn trọng, không vội vã, tránh dài dòng với quá nhiều lời dẫn. Sự tôn kính được thể hiện qua những khoảnh khắc thinh lặng. Các tín hiệu không lời cũng có thể hữu ích. Âm nhạc phụng vụ cần tôn trọng kho tàng truyền thống của Giáo hội.
Giống như các Kitô hữu sơ khai, chúng ta gặp gỡ Đức Kitô phục sinh trong việc bẻ bánh. Chúng ta bước vào mầu nhiệm qua nghi lễ và dấu chỉ. Chính những điều ấy làm sống động Bí tích. Chúng chạm đến cả lý trí lẫn con tim, làm bừng cháy ngọn lửa trong ta. Nhờ Bí tích Rửa tội, ta được uống cùng một Thần Khí (1 Cr 12,13). Nhờ Thánh Thể, ta trở nên thân thể của Đức Kitô và được sai đi thực hiện sứ mạng của Người. Khi sống Tin Mừng, ta làm cho Đức Kitô trở nên hiện diện hữu hình giữa đời.
Đó chính là điều tôi đã cố gắng giải thích cho người sinh viên đến thăm hôm ấy.
Dịch nguyên văn từ: The move away from the Latin Mass was about more than aesthetics – America Magazine
- Giáo hội cảnh giác trước hậu quả của tục hóa
- Tổ chức Renovabis lo ngại về tự do tôn giáo ở Ukraine
- Các giám mục Chính thống Ucraina kêu gọi Tổng thống thu hồi việc tước bỏ quốc tịch của Đức Tổng giám mục Onufrij
- Lời Chúa Hằng Ngày: Thứ Sáu tuần 25 Thường niên năm II (Lc 9,18-22)
- Lễ Vọng Phục sinh tại Vatican